ĐỘT QUỴ VÀ NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT

Đột quỵ hay hay tai biến mạch máu não thường xảy ra đột ngột khi tắt nghẽn, gián đoạn hoặc suy giảm vận chuyển máu lên não. Khi đó, não bị thiếu oxy, dinh dưỡng và các tế bào não chết dần trong vài phút, là một trong những bệnh lý thần kinh nguy hiểm và phổ biến nhất với nguy cơ tử vong cao nếu không được phát hiện và cấp cứu kịp thời. Khoảng 20 % tử vong trong vòng 1 tháng, 5 % – 10 % trong vòng 1 năm. Khoảng 10 % hồi phục không di chứng, 25-30% tự đi lại phục vụ bản thân, 20-25% đi lại khó khăn, cần sự hỗ trợ, 15-25% phải phụ thuộc hoàn toàn vào người khác. Tiên lượng xấu nếu có các triệu chứng: giảm ý thức, tăng tiết đờm – nước bọt, sốt cao ngay từ ngày đầu. Có hai loại đột quỵ gồm: thiếu máu cục bộ, do thiếu lưu lượng máu và xuất huyết do chảy máu gây mất khả năng di chuyển hoặc mất cảm giác ở một bên của cơ thể, giảm khả năng hiểu hoặc nói, chóng mặt hoặc mất thị lực, xuất hiện ngay sau khi đột quỵ xảy ra. Nếu các triệu chứng kéo dài dưới một hoặc hai giờ, nó được gọi là cơn thiếu máu não thoáng qua hoặc đột quỵ nhỏ. Đột quỵ xuất huyết gây đau đầu dữ dội với biến chứng bao gồm viêm phổi hoặc mất kiểm soát bàng quang.

Chẩn đoán thường dựa trên khám thực thể và chẩn đoán hình ảnh như chụp CT, MRI kết hợp với xét nghiệm điện tâm đồ ECG và xét nghiệm máu nhằm loại bỏ các trường hợp âm tính giả do lượng đường trong máu thấp.

Phòng ngừa đột quỵ dựa trên nguyên tắc giảm các yếu tố nguy cơ thông qua việc sử dụng aspirin, statin,phẫu thuật để mở các động mạch lên não ở những người mắc bệnh và wafarin ở những người bị rung tâm nhĩ. Đột quỵ do thiếu máu cục bộ, nếu được phát hiện trong vòng ba đến bốn giờ rưỡi, có thể được điều trị bằng thuốc phá vỡ máu đông. Điều trị để cố gắng phục hồi chức năng bị mất được gọi là phục hồi đột quỵ và lý tưởng nhất là diễn ra trong một đơn vị chữa đột quỵ; tuy nhiên, những thứ này không có sẵn.

Trong đột quỵ do thiếu máu cục bộ, lượng máu cung cấp cho một phần não bị giảm, dẫn đến rối loạn chức năng của mô não ở những vùng khác nhau. Nguyên nhân là do huyết khối, thuyên tắc mạch, giảm tưới máu toàn thân, huyết khối xoang tĩnh mạch não. Đột quỵ không rõ nguyên nhân được gọi là cryptogenic, chiếm 30-40% tổng số đột quỵ do thiếu máu cục bộ.

Có nhiều hệ thống phân loại khác nhau cho đột quỵ do thiếu máu cục bộ cấp tính. Phân loại của OCSP, còn được gọi là phân loại Bamford hoặc Oxford chủ yếu dựa vào các triệu chứng ban đầu: Dựa trên mức độ của các triệu chứng, cơn đột quỵ được phân loại là nhồi máu toàn bộ tuần hoàn trước, nhồi máu một phần tuần hoàn trước, nhồi máu tuyến lệ hoặc nhồi máu tuần hoàn sau, dùng để dự đoán mức độ đột quỵ, vùng não bị ảnh hưởng, nguyên nhân cơ bản và tiên lượng. Phân loại TOAST dựa trên các triệu chứng lâm sàng cũng như kết quả chẩn đoán huyết khối hoặc tắc mạch do xơ vữa động mạch lớn, tắt mạch bắt nguồn từ tim, tắc nghẽn hoàn toàn mạch máu nhỏ, nguyên nhân khác và không rõ nguyên nhân.

Đột quỵ do xuất huyết gồm: Xuất huyết trong não – chảy máu trong não: vỡ động mạch não, tràn máu vào các mô xung quanh, xuất huyết trong nhu mô – chảy máu trong mô não hoặc xuất huyết não thất – chảy máu trong hệ thống não thất, xuất huyết dưới nhện – chảy máu xảy ra bên ngoài mô não nhưng vẫn trong hộp sọ, giữa màng nhện và màng mềm – lớp trong cùng mỏng manh của ba lớp màng não bao quanh não.Hai dạng đột quỵ xuất huyết cũng là hai dạng khác nhau của xuất huyết nội sọ – sự tích tụ của máu ở vòm sọ. Ngoài ra, còn có tụ máu ngoài màn cứng – chảy máu giữa họp sọ và màng cứng và tụ máy dưới màng cứng – chảy máu dưới màng cứng nhưng không được coi là đột quỵ xuất

 

Đột quỵ xuất huyết có thể xảy ra khi có sự thay đổi đối với mạch máu trong não như bệnh mạch máu não, dị dạng động mạch não, chứng phình động mạch nội sọ… có thể gây xuất huyết trong nhu mô hoặc dưới nhện. Ngoài suy giảm chức năng thần kinh, đột quỵ xuất huyết thường gây ra các triệu chứng cụ thể: xuất huyết dưới nhện cổ điển gây đau đầu dữ dội hoặc chấn thương đầu.

Các nhóm đối tượng dễ có nguy cơ bị đột quỵ cao hơn người bình thường bao gồm:

  • Ít vận động, ít tập thể dục thể thao rèn luyện sức khỏe;
  • Thường xuyên hút thuốc lá hoặc tiếp xúc với khói thuốc lá;
  • Ít ăn rau xanh nhưng thường xuyên dùng đồ ăn có hàm lượng chất béo, dầu mỡ cao;
  • Nam giới và cả phụ nữ khi bước qua tuổi trung niên;
  • Gia đình từng có người bị đột quỵ;
  • Đang mắc hoặc đang điều trị các bệnh lý tim mạch, tăng huyết áp;
  • Người bị tiểu đường;
  • Người thừa cân, béo phì.

Nhìn chung, mục đích chính của việc điều trị tai biến mạch máu não là giảm tỷ lệ tử vong, hạn chế tối đa các biến chứng nghiêm trọng và lâu dài. Nguyên tắc chung khi điều trị các trường hợp đột quỵ chính là: Điều trị cấp cứu, nhanh chóng và chính xác, hạn chế ổ tổn thương lan rộng, tối ưu hóa tình trạng thần kinh, đảm bảo tưới máu não, phòng ngừa các biến chứng có thể xảy ra, giúp người bệnh phục hồi chức năng và phòng ngừa tối đa nguy cơ tái phát bệnh đột quỵ.

Trần Thủy Tiên – Khoa KTXNYH (Tổng hợp)

Call Now